THẦN, KHÍ, SẮC VÀ KHÍ PHÁCH
ĐẠI CƯƠNG VỀ THẦN KHÍ SẮC :
Thần ,Khí ,Sắc là ba ý niệm đặc biệt của tướng học Á Đông , rất khó lĩnh hội.
Xưa nay các sách tướng đều nói đến Thần ,Khí ,Sắc đều cho rằng Thần ,Khí ,Sắc tuy phân ra làm ba nhưng thực ra là một. Về cách qua nsát ,người thường nói xem Thần tại mắt ,khí ở nội tạng và phát thành âm thanh còn sắc ở ngoài da. Nhưng đó chỉ là một cách diễn tả khái quát không bao hàm đầy đủ mọi khía cạnh cần thiết .Đi sâu vào chi tiết, Thần ,Khí ,Sắc rất phức tạp, hàm hỗn và tương quan mật thiết .Tách rời Thần ,Khí ,Sắc ra từng phần riêng rẽ chì là một cách mổ xẻ máy móc để tiện trình bày mà thôi. Phần dẫn nhập này tóm tắt một cách khái quát những điểm trọng yếu trước khi cố gắng phân tích chi tiết từng thành tố Thần ,Khí ,Sắc trong tướng học .
Sở dĩ tướng học Á đông xem Thần ,Khí ,Sắc là một vì đó là ba dạng thức khác nhau.,nhìn dưới những khía cạnh khác nahu của dữ kiện duy nhất ,có tính cách siêu vật thể hơn là vật thể của con người .
Theo tướng học, chính dữ kiện đó đã tạo nên tinh hoa ,hoạt lực nội tại và các yếu tố tâm linh của con người. Người Á Đông ,nói đúng ra là người Trung Hoa ,vốn thấm nhuần truyền thuyết âm Dương Ngũ hành, dưới khía cạnh vật là một thứ khí trong khi kết hợp và biến hóa đã tạo ra vạn vật ,trong đó có con người . Nếu nói đến bản thể của khí trong con người là nói đến bản thể của khí âm Dương Ngũ hành trong vũ trụ đã hội nhập vào con người từ lúc thọ thai kết hình và cùng với nhục thể tạo thành một khối duy nhất đó là con người .
Như vậy ,trong con người ta có thể tạm nói khí là một tứh nhựa sống vô hình, nếu thể hiện qua đầu màu đuôi mắt thì gọi là thần hiện ra một nơi cố định trên làn da thành ra màu sắc thì gọi là sắc. Do đó, Thần ,Khí ,Sắc tuy ba nhưng xét về bản chất
thật ra là một và có tính cách bất khả phân trong thực tế. Nói cách cụ thể hơn, Thần ,Khí ,Sắc có thể ví như ba trạng thái khác nhau như thể hơi ,thể lỏng ,thể đặc của nước :thể hơi là thần, thể lỏng là khí ,thể đa75c là sắc. Thể lỏng là thể thông thường căn bản của nướa nhưng thể hơi và thể đặc không bao giờ hoàn toàn tách rời ra khỏi thể lỏng cũng như thần và sắc không bao giờ tách ra khỏi khí.
Trong phần khí, ở khía cạnh cấu tạo (structual) nhìn dưới vị thể tĩnh nghĩa là khi con nguười bất động ,ta có thể quan sát được là khí mạnh hay yếu ,thanh hay trọc ,tốt hay xấu. Vì vậy ,nhiều dưới khía cạnh này, giữa khí và sắc có sự tương quan mật thiết trong tướng học người ta thường gộp chung thành một mà gọi là khí sắc với ngụ ý rằng trong việc quan sát khí thì khí chỉ được nói đến một cách gián tiếp còn sắc mới là trọng điểm .Chính vì thế mà sáchThủy kính tập gọi nó là khí sắc chi khí.
Trong vị thế động của con người, và dưới khía cạnh cơ năng(fone-tionnel), qua các tác động của thân ìhnh ,ta thấy có thể phát hiện những cá tính đặc biệt, những đặc điểm tâm hồn từng cá nhân .Dạng thức này của khí được mệnh danh là khí phách.
Tác gỉa Phạm Văn Viên của cuốn Thủy kính tập là người đầu tiên đặt ra danh từ khí phách để phân biệt với khí và sắc khi ông nói :"khí phách chi khí" và `khí sắc chi khí " .Trong tác phẩm của ông ,phần màu sắc của da bị xem nhẹ ,còn phần thần lại được chú trọngrất nhiều và xem như là liên kết chặt chẽ với khí . Do đó ,đôi khi ta gọi là khí phách, ta lại gọi chính danh hơn là tinh thần và khí phách, và để ch ogiả tiện ,người ta gọi tắt là thần khí .Chính phần thần khí này mới là phần cao thâm của tướng lí Á Đông, nó giúp phân biệt được quý tiện hiền ngu,dự đoán được thànnh bại của cin nguời trong tương lai cũng như mạng vận dài ngắn ,thô bạo hay thanh khiết .
Từ trước đến ay ,thần khí vì tính cách hư hư thực thực của nó,vừa có bản chất là siêu hình vừa có bả nchất là thực tại ,lại đòi hỏi người qaun sát phải có một nhãn quang và thính giác bén nhạy đã được xếp vào loại học thuật bí truyền. Hơn nữa, cách diễn tả của nguời xưa lại rất hàm hỗn cố ý thần bí hóa và lại không được phổ biến sâu rộng như phần hình tứong ,nên từ đời Đông Hán đến gần đời Tống gần nưh bị thất truyền. Đến hai đời Minh,Thanh ,một vài cuốn sách tướng cổ điển có nhắc đến, nhưng không mô tả.
Mãi đến đời Thanh ,sách Thủy kính tập mới lại đề cập đến ,nhưng vẫn chưa rõ ràng cho lắm .Tuy vậy ,xét qua mớ tài liệu rời rạc tản mát trong kho tàng văn hóa tướng học còn lưu lại đến nay cộng thêm với một đoạn bình chú của tướng tưh ta có thể suy diễn ra được một phần lớn những điều cổ nhân muốn gói ghém qua ý niệm khí phách .Vì vậy ,trong đoạn cuối chương này ,soạn gỉa đặc biệt dành ra một phần lớn để giới thiệu về phần tướng lí này của tướng học Á Đông để độc giả thưỡng lãm.
THẦN
Thử phác hoạ ý niệm "Thần":
"Thần" là một khái niệm căn bản của tướng học Á Đông , nhưng lại là một ý niệm rất khó diễn tả. Một phần vì người xưa học tướng theo lối tâm truyền , lấy trực giác và kinh nghiệm để lĩnh hội dần dần nên không cần và có thể nói là không thể diễn tả đầy đủ , một phần là nếu vài ba cuốn tướng học cổ điễn tả thì lối diễn tả đó vừa mơ hồ vừa huyền bí khiến người đọc bị hoang mang như lạc vào mê hồn trận . Thật sự , bản chất của thần không có gì là hoang đường , cũng không đến nỗi khó lĩnh hội cho lắm.
Đến giúp độc giả hiểu được ý niệm thần trong tướng lý Á Đông , soạn giả cố gắng phác họa lấy ý miệm thần theo một khảo hướng thực tiễn , ngược lại với lối diễn tả huyền bí của sách vở cổ điển bằng cách đưa ra nhiều ví dụ cụ thể trước khi đi vào phần định nghỉa lý thuyết.
Trong đời , hẳn mọi người đều có dịp quan sát lắm cặp mắt có nhãn lực đặc biệt khó quên .Nhãn lực đó khi đầy ác khiến kẻ nhìn phải khiếp sợ , có khi đầy vui tươi khiến kẻ nhìn quyến luyến . Những loại ánh mắt đó gọi là ánh mắt có thần. Ngược lại , cũng có nhiều đôi mắt ảo não , xa xăm , lờ đờ , thiếu sinh lực , hoặc không gây một cảm giác nào cho người quan sát : đó là những ánh mắt thiếu thần.
Có những tư thế đi , đứng , ngồi chũng chạc , ổn trọng tự nhiên, tạo một cảm giác uy nghi khả kính : đó là những tác phong có thần.
Có nhiều giọng nói chanh chua gây tức giận , hoặc hùng hồn làm cho hân hoan phấn khởi , hoặc trong trẻo , êm dịu truyền cảm , khiến người nghe như bị thu hút bàng hoàng : đó là hợp âm thanh có thần .
Một phụ nữ nhan sắc có hấp lực lôi cuốn sự chú mục không ngừng , khiến mọi người phải nhìn , nhìn hoài không chán , hoặc lúc nhìn mà động lòng ham muốn hay tấm tắc khen ngợi : đó là nhan sắc có thần.
Cũng có phụ nữ không mấy xinh đẹp nhưng cách đi , cách đứng , giọng nói , nụ cười đều toát ra vẻ thùy mị , đoan trang khiến con người sinh lòng cảm mến cũng là loại người có thần.
Trong đoàn vũ công dang biểu diễn , có người diễn xuất nổi bật hơn hết khiến cho khán giả thấy được ý nghĩa của điệu vũ qua cử chỉ , vũ công đó có thần trong điệu vu.õ
Những cụ già dù gần đất xa trời , nhưng vẫn còn đầy vẻ quắc thước , nghiêm phong , dũng liệt là những kẻ có thần.
Những trẻ em nhìn vào là thấy ngay tướng thông minh , đĩnh độ cũng là hạng người có thần.
Những ví dụ trên cho thấy thần được biểu lộ không những ở đôi mắt mà còn trên toàn thể khuôn mặt , trong phong thấy , giọng nói , nụ cười , trong thế cử động và cả trong thế bất động của con người nữa . Thần được phát lộ rõ rệt nhất lúc vui , lúc hứng , lúc giận , lúc sợ , lúc ham muốn , lúc cãi co . lúc thuyết phục , lúc đấu võ , lúc đánh kiếm.
Tóm lại , bất cứ lúc nào con người thoát khỏi trang thái bình thường mà toát ra những nét khác biệt kẻ phàm , trong ánh mắt , tướng đi , đứng , nằm , ngồi , cười thì đó vẫn là người có thần. Chính trong trạng thái bình thường ta thấy thần khó được lý hội nhất . Người xem tướng bao giờ cũng gặp phải đối tượng và trang thái này.
Những ví dụ và sự diễn tả trên cho phép ta địng nghĩa thần như sau: Thần là âm hưởng nhận thức được trên các nét tướng con người , là tiếng dội trong tâm hồn người xem tướng của những nét tướng quan sát được , chỉ những nét tướng nào tạo được những cảm giác , cảm tướng , cảm xúc , dư âm trong tâm tư người xem tướng thì mới là những nét tướng có thần . Trái lại , những nét tướng nào không có ý nghĩa , không gây một chấn động nào trong tâm tư , không có gì khác biệt với thiên hạ là những nét tướng thiếu thần. Những nét tướng lộ thần rõ rệt ( như sát khí trong ánh mắt , sự thô bạo của cử chỉ , tiếng nói lớn , giọng cười to ) thì bất cứ người phàm nào cũng quan sát được. Nhưng có những nét tướng không lộ thần một cách rỏ rệt đối với người phàm thì chỉ có nhà tướng thuật thượng thừa mới tra xét được thần khí mà thôi . Như thế, quên chuẩn nhận thức thần là trực giác riêng của thần tướng , Đây hiển nhiên là tiêu chuẩn hết sức chủ quan và cá biệt . Việc khảo sát thần sở dĩ khó là vì lí do , và sự khác nhau giữa các nhà tướng chính cũng vì nguyên nhân trên.
Đề định nghĩa giản dị hơn , thần là tinh thần . Đó là nguồn động lực tiềm ẩn trong con người , kết tinh từ sự ham muốn , từ ý chí , từ nghị lực , từ tình cảm , từ trí tuệ , từ huyết thống , từ văn hóa được phát lộ ra ngoài , ít hay nhiều , mạnh hoặc yếu .
Nó có thể tiềm ẩn hoặc phat lộ , khang kiện hay suy nhược . Xem thần là xem tinh thần , xem nội tâm , xem phần chân tướng bên trong qua những nét phát biểu ra ngoài .Thường khi cái bên ngoài không gói ghém hết cái sinh động và uẩn khúc bên trong .
Vì vậy, thuật xem tướng bao giờ cũng phải cố gắng thấu đáo nội tâm thì mới đạt tiêu chuẩn .Đó là lí do tại sao khảo sát thần phải bằng mắt chưa đủ mà phải dùng đến tâm để tìm hiểu tâm . Cái khó của việc quan sát Thần là ở chỗ đó . Cái vi điệu cũng từ đó mà ra.
II NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU THẦN
a) Nguồn gốc của thần dưới nhãn quan tướng học cổ điển Thần ở đâu mà ra? Để giải đáp câu hỏi này , cổ nhân đã đưa ra lập luận sau:
Con người , bẩm thụ tihn hoa của trời đất mà sinh ra . Thần là vật vô hình , là tinh hoa tối cực của con người có trước rồi mới có hình hài . Hình hài sở dỉ có là đến chứa đưng nội thần . Do đó thần bàng bạc trong nội tang con người . Lúc ngủ thì nội thể , lúc thức thì hiện ra ở cặp mắt.
Đối với chúng ta , lập luận trên không đủ nhưng có vài điểm khả dụng . Những điểm khả dụng đó soạn giả sẽ đề cập đến ở những đoạn sau:
b) Vai trò cặp mắt trong việc quan sát Thần Qua những ví dụ đan cử ở đầu phần này , chúng ta thấy thần rất bao la bàng bạc chứ không phải chỉ thu hẹp ở cặp ma71t . Nhưng hẳn chúng ta đều có dịp ngắm những bức học chân dung con người , ta thấy bức họa vẽ linh hoạt hay không phần lớn là ở cặp mắt . Mạnh Tử đã từng nói :"Quan sát người thì quan sát ở cặp mắt , mắt chính đính thì tâm hồn ngay thẳng , mắt tà vay thì tâm tính cũng tà vay" .Tây phương cũng có câu:" Cặp mắt là cửa sổ tâm hồn " . Thần là tinh hoa , là tấm gương phản ánh tâm hồn con người . Thế mà quan sát mắt ( nói đúng ra là quan sát ánh mắt ) ta biết được tâm hồn nên cổ tướng học nói là quan sát ở mắt , tuy chưa đầy đủ nhưng không phải là vô lý .
Vả chăng quan sát mục quang ta biết được nhiều về thần của con người hơn bất kỳ bộ vị hoặc nét tướng khác . Chẳng hạn ta có thể biết ánh mắt mạnh hay yếu , dữ hay hiền hoà , gian xảo hay thuần phúc ... Do dó , ta phải thùa nhận rằng vị trí quan sát thần thuận tiện nhất là cặp mắt con người . Tuy rằng một mình nhãn thần chưa đủ
để tượng định một cách dứt khoát về thần của một cá nhân , nhưng người quan sát sâu sắc có khá nhiều dữ kiện cần thiết để giải đoán về phẩm cách và vận mạng nói chung của con người . VÌ THẾ NGƯỜI XƯA MỚI NÓI:" Xem quí hiển hay hạ tiện thì xem ở mắt" và ở đây ta đặt trong tâm vào việc quan sát mắt để suy luận và tìm hiểu về thần .
c) Phân loại Thần qua mục quang Trong tướng học Á Đông nói đến thần qua cặp mắt thì điểm cần đặc biệt chú ý không phải là hình dạng của mắt mà là tính chất của mục quang . Quan sát mục quang gúp ta phân loại được các loại Thần của con người và định được sự tương quan hợp nhãn thần với công danh sự nghiệp của một cá nhân . Đại để , căn cứ vào mục quan ta phân biệt được :
1 Thần tàng
Đây là nét thượng thừa cách về nhãn thần . Thần tàng có nghĩa lá ánh mắt sáng sủa giữa không rực rỡ tương tự như một hạt ngọc ở trong tư thế an tĩnh phát ra ánh sáng nhưng ánh sáng đó ở cặp mắt có tính cách phảng phất , nhẹ nhàng , thoáng qua như không có nhưng nhìn kỹ , ngắm lâu ta mới phát hiện được . Loại nhãn thần ẩn tàng này rất hiếm nhưng kẻ có loại nhãn thần này lá dấu hiệu chác chắn thành đạt được đại nghiệp , hưởng phú quí lâu dài.
2 thần lộ
Ngược lại với Thần tàng thì gọi là Thần lộ . Lộ ở đây không những tròng mắt lồi ra để lộ cả tròng trắng mà ánh mắt cũng quá lộ liễu tựa như cọp nhìn con mồi chằmchằm , ánh mắt sáng rực tựa bao nhiêu tinh anh của con người đều theo ánh mắt mà tiết ra ngoài . Đó là đều đã được Nguyễn Du tả qua hai câu thơ trong Đoạn Trường
Tân Thanh :
Tinh anh phát tiết ra ngoài Ngàn thu bạch mệnh một đời tài hoa
Dưới nhãn quang tướng học , thần lộ là kẻ tinh hoa phát tiết chủ về gin tham hình khắc , có may được quý hiển thì cũng chỉ được một quảng thời gian ngắn rồi lại lụi tàn . Số thọ cũng không được dài vì tinh hoa lộ thì thần mau kiệt mà thần là căn bản của thọ mạng .
3 Thần tĩnh
Thần tĩnh ở đây có nghĩa là mục quang sáng sủa tự nhiên hiền hòa không nôn nả , giống như mặt nước mùa thu , nhưng thoáng thấy rồi lại không thấy rõ , nhìn thật lâu lại thấy rõ. Nói một cách khác , thần tĩnh chính là lối gọi tinh thần thư thái nhàn hạ thì hiện qua ánh mắt . Người có loại thần tĩnh tâm tính nhân từ không hiểm độc , cuộc đời thanh nhàn , ít sóng gió .Đó là tướng học loại người thanh quí.
4 Thần cấp
Thần cấp là loại ánh mắt phát sáng phát động không ngừng giống như một hỏa diệm sơn phun lửa liên miên .Đó chính là loại mục quang của loại mắt jhỉ , trông thoáng qua là nhận ra ngay tính tình nóng nảy , khích động . Nếu ngôn ngữ , đi đứng , ăn nói đều có dáng vẻ gấp gáp thì kẻ đó sớm phát đạt nhưng cũng mau tàn.
5 Thần uy
Khuôn mặt lúc mở lúc , khi thu nhỏ , mục quang có oai lực tự nhiên khiến người khác nhìn vào cảm thấy kiên nể . Loại nhãn thần này là dấu hiệu của hạng người làm nên sự nghiệp phi thường . Chẳng hạn như cặp mắt của nhà độc tài Đức quốc xã A.Hitler, khi nhìn ai cũng như chế ngự kẻ đó khiến kẻ đối diện chỉ biết cúi đầu khuất
phục.
6 Thần hôn
Đó là loại mục quang mờ mịt , ánh sáng yếu ớt gần như không có , đại khái như mắt heo , mắt cá ( xem phần nói về các loại mắt điển hình trong tướng học ) Loại mắt này tượng trưng cho cá tính ươn hèn suốt đời không làm nên chuyện gì thường chết yểu.
7 Thần hoà
Loại mục quang này phần nào giống như loại thần tĩnh nhưng khác ở chỗ thầ tĩnh chỉ về sự ổn cố thanh thản còn thần hoà là ánh mắt chẳng những hiền dịu thường xuyên mà khuôn mặt sắc thái lúc nào cũng tươi vui lạc quan , dù lúc giận dữ cũngkhông mất vẻ từ ái ,chẳbng hạn cặp mắt của bức tranh ông Thọ của người Trung Hoa hay Phật Di Lặc trong các chùa chiền .Về mặt cá tín . người có ánh mắt xếp vào loại thần hoà tâm tính lúc nào cũng hồn nhiên bất chấp ngoại cảnh , không bao giờ mưu tính hại người .Về mặt mạng vận . ít khi bị lâm vào cảnh nguy hiểm ngặt nghèo , không quý hiển thì cũng không bao giờ đói rách , khốn khổ .
8 Thần kinh ( hay còn gọi là thần khiếp )
Mục quan lúc nào cũng hớt hải lấm lét như đại họa sắp tới dù rằng thực tế không có gì đáng sợ . Đó là tình trạng của ke có tâm hồn bất định , ăn uống , nằm ngồi lúc nào cũng có vẻ bồn chồn , hốt hoảng bất an . Kẻ có mục quang như thế , công danh sự nghiệp hoặc thọ số không được bền lâu , thường nửa đường gãy đổ.
9 Thần túy
Ánh mắt hôn mê , lúc nào cũng như người ngái ngủ ( xem lại Túy nhãn trong chương nói về mắt ).Loại người có mục quang này tâm tính hồ đồ , thiếu sáng suốt , thường dễ bị ngộ độc ( ẩm thực , sắc dục ...) mà chết hoặc tiêu tan danh vọng sự nghiệp.
10 Thần thoát
Ánh mắt thất thần , sắc mặt thẫn thờ . Đó là trường hợp thường thấy ở những người gặp lúcn kinh hoàng tột độ thì mặt thộn ra , chân tay cứng đờ tựa như lúc thấy ma. Nếu chỉ xảy ra trong trường hợp bất thường quá đột ngột thì đó la dấu hiệu của tin thần yếy đuối bạc nhược , không tự chủ được . Nhưng nếu không vì sự kinh hoảng mà bỗng nhiên mục quang thất thần thì lại là dấu hiệu tinh lực khô kiệt báo hiệu thọ số sắp đứt đoạn.
d) Phân biệt vài đặc thái của nhãn thần
Như trên đã nói , trong khi quan sát thần người ta nghĩ ngay đến tinh hoa của con người phát hiện ra trong nhiều lãnh vữc và dưới nhiều hình thái nhưng chủ yếu vẫn là ở cặp mắt . Nói đến mắt ta không nên chú trọng nhiều lắm tới hình thể của nó ( lớn nhỏ , nông sâu , dài ngắn , rộng hẹp ...) ,à phải để ý đến mục quang . Chính mục quang mới gíup ta nhận định va phân biệt được nhãn thần . Mục quang nói chung có thể ở vào một trong hai trường hơp chính.
1 Phù quang
Đây là loại ánh mắt có vẻ sáng nổi , hời hợt , người tinh mắt có thể bằng trực giác nhận ra rằng ánh mắt tuy có vẻ sáng tỏ mà thực ra là không có thần tựa hồ như mặt trăng phản chiếu lại ánh sáng thái dương hoặc như chất lân tinh được sơn phết vào các tấm bảng chỉ đường ban đêm sáng rực khi có ánh đèn xe rọi tới.
2 Chân quang :Ngược lại với phù quang là chân quang.
Đây là loại sáng thực có sinh khí nên ánh mắt linh họat nhìn vào là thấy sống động như ánh thái dương vậy.
Trong phép quan sát thần để định quý tiện hiền ngu , chỉ có chân quang mới đáng được lưu ý còn phù quang phải gạt bỏ, vì phù quang là ánh sáng muợn hay quá yếu ớt không đủ để kết luận rằn có thần nênkhông hể dựa vào đó mà biết được hiền ngu quý tiện. Vả lại ,phù quang còn có ý nghĩa là kẻ đò sắp chết trong tương lai rất gần. Kẻ như thế còn gì đáng bàn đến .
Chân quang được chia thành bốn loại tùy theo tính chất đặc tính của mục quang như sau :
a) Thủ chân ( ánh sáng thực và giữ lại được) :
Tròng mắt như vì sao sáng ,không dao động mà tự phát quang ,, lúc tĩnh thì ngưng tụ, lúc động thì bừng sáng,khiến người ngoài không dám nhìn thẳng vào mắt mình.
b) Người có thủ chân quang tính tình trung thực ,lương hảo danh vang thiên hạ, dù gặp nguy hiểm cũng vẫn vượt qua được.
c) Hàm chân ( ánh sáng thực nhưng ẩn tàng vào mắt) :ánh mắt tự phát quang giống như ánh sáng của viên ngọc quý ,nhìn kĩ mới thấy vẻ sáng ,khiến người ta cảm thấy dễ chịu, tự trong thâm tâm nảy sinh cảm giác hân hoan.
Rộng ra khi ta nhìn thấy cây cỏ suới nước xinh tươi mà thấy ấm lòng vui mắt thì cái vẻ sáng của cảnh vật là tinh hoa của núi sông .Cái đó mệnh danh là hàm quang.
Người có thần mắt thuộc loại hàm chân thì đỗ đạt sớm ,lưu lại tiếng thơm cho đời.
d) Tàng chân : .(sáng thực nhưng lhông lộ liễu) ánh mắt sáng mờ mờ ,mới nhìn thì như không đủ mà nhìn lâu lại có vẻ dư.Kẻ có tàng chân mạng vận vinh hiển ,sự sang cả lưu tới đời sau nhưng phát đạt muộn.
e) Hồi chân ( sáng thực mà như sẵn sàng tuôn ra bình thường rất khó nhìn ,muốn thấy phải mở mắt thật to, lúc đó mới thấy rõ vẻ sáng .loại chân quang này thường xuất hiện trong ánh mắt những người cận thị,.Nó có thể tụ hay có thể tán ,hay lệch,có thể êm đềm nưh ánh trăng rằm ,cũng có thể như ánh sao nhấp nháy,Loại chân này nên có vẻ sáng ngấm ngầm và hơi đen ám thì mới quý.
Cái quý của loại mắt có chân quang này khác hẳn với ba loại trên ,tốt xấu từng trường hợp .Những kẻ kì hình dị tuớng thành đạt đều thuộc loại này.
Tóm lại, có chân quang dù nhiều hay ít là tướng của kẻ mưu sự dễ thành ,cầu công danh sẽ đạt.Đại khái, chỉ rất về mặt Thần Khí mà đoán kẻ có mục quang thuộc loại tàng chân hậu vận phát triển tốt đẹp, sự nghiệp chắc chắn viên mãn nhưng không thoát khỏi cảnh thiếu thời bị sóng gió ,bị vấp váp rất nhiều trong cuộc đời, không được sống thanh thản bình dị như kẻ thuộc loại thủ chân và hàm chân .Phàm người ta dù các bộ vị có bị khuyết hãm ,cốt cách có vài điểm bị xếp vào loại hạ cách mà ánh mắt lúc nào cũng có chân quang bất kể lúc nào thì cũng giống như rồng thiêng lân quý ,tuy ở nơi đầm hẹp rừng tưha coi như đủ để hóa giải những khuyết điểm của hình thể và có thể đạt được phú quý vượt ra ngoài dự liệu thường tình .Đây chính là một trong nhiều bí quyết của tướng học á Đông và thuộc về nguyên lí trọc trung hữ thanh .Sách vở bàn về tướng thuật đầy rẫy các giai đoạn liên quan tới điểm tế nhị này.
f) Những điều kiện tối hảo của nhãn thần
Nói đến nhãn thần ta không cần chú ý tới hìng dạng của mắt mà phải đặc biệt lưu ý đến mục quang .Mục quang được xem là tối hảo khi nó hội đủ 7 điều kiện sau đây :
1- Tàng nhi bất hối :
Nghĩa là nhãn thần phải có vẻ che khuất đi được, nhưng mục quang không được tối ám.Nói một cách khác rộng rãi hôn là mục quang tuy sáng nhưng là một tứh ánh sáng có vẻ hàm xúc, động trong cái tĩnh, tương tự như vẻ sáng của một viên ngọc báu tự nó có thể phát quang nhưng không rực rỡ, lộ liễu phải quan sát thật lâu mới phát hiện được .Còn hối là mắt lờ đờ như mắt ngáy nhủ.
2- An nhi bất ngu :
Mục quang ổn định nhưng không trơ trẽn bất động,Từ ngữ ổn định tự nó đã ngầm chứa tính cáhc sống động nhưng là cái vẻ sống động linh hoạt chứ không phả ial2 giao động "trơ trẽn bất động" có nghĩa là mục quang im lìm (inertie) không biểu lộ được đầy đủ sinh khí cần thiết ,không biến thông được .
Nói cách khác đi ,nhãn thần sung túc thì tự nó có vẻ sáng như một ngọn đèn điện dược thắp bằng dòng nhân điện xoay chiều có thể thu rút lại cường độ trong một giới hạn nào đó. Chẳng hạnnhư khi đàm thoại ,ánh mắt ta tuy không dao động nhưng lúc thích túh và khi cụt hứng độ sáng của mắt phải có nhịp độ chuyển biến thích nghi đủ để diễn tả được cái trạng thái tình cảm nội tâm của ta lúc đó. Trái lại, mục quang của một cá nhân lúc nào cũng cùng một cường độ dù nghe câu chuyện rẻ nhạt hay giật gân mà vẫn không có gì thay đổi thì không có thể coi là an nhi bất ngu được .Lúc đó ,mục quang của kẻ đó phải được gọi là an nhi ngu .
3- Phát nhi bất lộ :
Mục quang được coi là phát khi tia mắt như xạ ánh sánh ra ngoài nhưng mức độ phát quang của nó vừa phải, không quá mạnh mẽ rõ ràng ,chỉ người quan sát thật tinh tuờng mới phát hiện ra được. Nói khác đi ,mục quang như viên ngọc sáng giữa ban ngày, tuy phát quang nhưng ánh sáng rất mờ so với ánh sáng thái dương chứ không phải là một ngọn đuốc để bất cứ ai cũng thấy được dễ dàng.
Từ ngữ lộ có nghĩa là tròng mắt lồi ra như nhìn trừng trừng vào đối tượng quan sát , lộ cả tròng trắng .Đại để lúc mèo rình chuột, cọp chuẩn bị vồ mồi, nhìn chằm chằm vào con mồi thì lúc đó mục quang gọi là lộ.
4- Thanh nhi bất khô:
Điều kiện ày đặt nặng vào việc quan sát cấu tạo của mắt về phương diện phẩm chất. Thanh có nghĩa là lòng đen ,lòng trắng cũng như đồng tử phải trong trẻo nghĩa là ranh giới ba phần đó phải phân biệt rõ ràng ,chất liệu cấu tạo phải thuần khiếtkhông được có các tia máu ,màng mắt xen lẫn vào , một khi có tất cả chất liệu cấu tạo đều thuần khiết thì nhìn vào mắt người ta có cảm giác như nhìn vào một hồ nướv sâu thẳm ,trong trẻo như các tiểu thuyết gia vẫn thường mô tả :mắt trong sáng như nước hồ về mùa thu .Đấy chính là điều tuớng học gọi là thanh vậy. Cònkhô có nghĩa là cằn cõi ,không có vẻ sống động hiện lên ở bề mặt .Mắt htanh mà khô có nghĩa là nhãn thần lạnh lẽo suy nhược ,không được kiên cố. Để dễ hiểu hơn,xin lấy 1 ví dụ cụ thể : thanh nhi bất khô ví như cây tùng ,bách về mùa đông , cốt cách thanh nhã và nhìn vỏ cây cành là vẫn có vẻ xanh tươi biểu hiện một sức s61ng tiềm ẩn bên trong. Gược lại, thanh nhi khô ví như thân cây lau sậy về mùa đông, cành lá trơ trọi, cằn cõi ,nhìn kĩ có htể biết ngay là thân cây hết nhựa ,chỉ còn hình mà mất hết chất.
5- Hòa nhi bất nhược
âm dịu nhưng không mềm yếu. Nói rộng ra mục quang được coi là Hòa nhi bất nhược khi ánh mắt sáng một vẻ êm dịu nhưng không mềm yếu, khả ái chứ không phải khả hiếp khiến nguời khác nhìn thấy có cảm tưởng một niềm vui thích muốn tiếp xúc với ta chứ không dám khinh mạn vì trong sự hóa ái đó ẩn tàng mo65t sức mạnh khiến kẻ đối diện phải nể phục trong lòng.chẳng hạn mắt các tượng Phật trong chùa ,tuy ánh mắt từ bi bác ái nhưng vẫn không nhu nhuợc ủy mị.
6- Nô nhi bất tranh :
Lúc giận không lộ vẻ cạnh tranh ,oán tức thì gọi là nô nhi bất tranh .Tuy nhiên ,trong ý nghĩa của tướng học , ý nghĩa câu trên phong phú hơn nhiều .Nộ phải được coi là chính khí vì khi giận dữ phát xuất ra bởi một lí do thực sực chính đáng nhưng mặt không biến sắc ,chỉ hơi cau mày, ánh mắt nghiêm nghị biểu lộ một tâm hồn ày công hàm duỡng luôn luôn giữ được bình tĩnh .Có đủ các đặc tính kể trên thì mới gọi là nộ.
Còn giận mà mắt đờ ra ,mắt xạm lại ,tia mắt như tóe lửa ,nưh muốn ăn tươi nuốt sống người khác là dấu hiệu bề ngoài của kẻ khôngcó đức tính trầm tĩnh, mất tự chủ gọi là tranh .Chính vì tranh bao gồm những phản ứng có ẩn ý ăn thua đủ ,chỉ biết thỏa mãn tự ái nhất thời không nghĩ đến hậu quả về sau ,nên tranh bị xếp vào loại khí luợng hẹp hòi, biểu thị khí phách nhỏ mọn ,do đó tranh bị coi là tà khí.
7- Cương nhi bất cô:
Nghĩa đen là cứng ,mạnh mà không lẻ loi ,nhưng ý nghĩa chính yếu ở đây chỉ loại mục quang tỏa ra ánh sáng hồn nhiên oai nghi khiến kẻ khác nhìn vào phải vị nể tưởng như sau con người của ta là cả một khối đông đảo sức mạnh vô hình chứ khôngphải chỉ là một cá nâhn đơn chiếc.
III-MỘT VÀI GIAI THOẠI :
Đời Minh, vĩnh lạc hoàng đế thường nghiên cứu tướng học với một nàh tướng học nổi tiếng là Viên Liễu Trang (tác giả bộ sách Liễu Trang tướng pháp hiện còn truyền rộng rãi) . Một hôm, trong lúc đàm đạo về Hình, Tướng con người , nhà vua nêu lên thắc mắc với nhà tướng học họ Liễu như sau :
"Trẫm thấy sách tướng nói rằng :hình hài khuyết lãm thì bần hàn Ngũ quan toàn hảo thì thông minh quý hiển. Thế thì tại sao trong triều có người làm đến thượng thư mà diện mạo lại cực kì xấu ? Lại thấy trên đời không thiếu gì những kẻ Ngũ quan tuyệt mĩ mà lại chết non ,hay mặt mày đẹp đẽ mà ngu độn ,số mạng không ra gì ?"
Liễu Trang đáp :" Người diện mạo xấu xí mà lại quý hiển là vì mục quang có thần :đi vững vàng như thuyền lớn ,không nghiêng ngả ,ngồi ổn trọng như là núi non đó là tướng đi ,đứng, nằm ,ngồi uy nghi có thần .Ngũ quan tuyệt mĩ mà chết non là vì mục quan hôn quyện ,thất thần :mắt mày xinh đẹp nhưng đó chỉ là bề ngoài còn ở trong thì khí trệ, thần hôn làm sao mà thông tuệ được.cho nên, bàn về quý hiển ,chỉ dựa vào hình àhi không đủ, mà còn phải lấy thần ,khí làm gốc."
Nhãn quang (hay mục quang cũng vậy ) con người do trời phu cho không phải muốn là được. Nhãn quang chẳng những biểu lộ ca ù tính mà còn có ảnh hưởng sâu xa tới mạng vận tử sinh của con ngừoi nữa.
Cách đây vài chục năm ,trước khi Nhật chiế mHương Cảng ,Aùo môn, tạo Aùo môn có một người chuyên làm nghề chài lưới là Trần Gia Câu .câu ỷ mình có thyuền buồm loại lớn nên thường ra tậ nđại dương câu cá vài ngày mới trở về ,số thu hoạch không thua gì các tàu đánh cá có động cơ .Trên tàu ,ngoài số ngư phủ có nuôi thêm một con khỉ rất khôn, để sớm hôm bầu bạn ,còn vợ con để lại Áo môn .
Một bữa kia ,vì số ngư phủ lành nghề bỏ đi gầ nhết ,Gia câu phải đi cùng khắp áo môn để mướn thợ mới, tình cờ gặp người quen cũ là Dương Chiếu Thản ,vốn người đồng hương ,bèn cùng nhau rủ vào quán ăn nhậu để phỉ tình tha hương ngộ cố tri .Họ Dương là kẻ vốn nòi thư hương ,lại rành nghề xem tướng ,nên trong lúc đôi bạn đàm đạo ,dương thấy sắc mặt của Gia câu chỗ thì xanh như tàu lá dừa ,chỗ thì xạm như tro tàn ,không nén được kinh di nên mới bảo rằng : " Này bạn ,tôi xem tướng thấy anh diện mạo khí sắc rất xấu ,chỉ khỏang ba tháng đổ lai tôi e rằng anh sẽ gặp tai họa rất xấu .Vậy trong thời gian ày anh không nên liều lĩnh ra khơi ,hãy chịu khó hi sinh bớt chúc lợi tức mướn thợ lưới cá về quản chủ thuyền thì may mới thoát nạn".
Gia Câu nghe xong ,nét mặt nhăn nhó nói :"Gần đây số tuh hoạch quá kém ,số thợ cũ bỏ đi .Baygiờ phần đông là thợ mới ,kinh nghiệm chưa có nếu không có người rành nghề biết hướng cá đi thì tổn thất quá nặng sợ kham không nổi".
Dương Chiếu Thản suy nghĩ hồi lâu ,xem kĩ tướng mạo của bạn rồi nói :" khí sắc của anh thật xấu nhưng may ánh mắt có thủ chân quang tức là thủ thầ nên có hi vọng thoát hiểm".
Câu nghe xong thắc mắc :" Xấu tốt là do khí sắc ,tại sao tướng khí tốt lại có thể cứu vãn được hoạn nạn?"
Dương đáp : " Tướng cách tốt thì số thọ chưa thật sự dứt ,trong thời gian đó nếu chẳng may gặp nạn thì chỉ bị kinh hiểm chứ không đến nỗi tuyệt mạng .tỷ như khí sắc trên mặt ảm đạm nhưng mắt có thầ nquang an tĩnh không bị giao động theo cùng với sắc mặt thì tuy tai họa đột nhiên xảy tới cũng vẫn vượt qua được :
Thấy Gia Câu quyết ý vì sinh k6é mà phải mạo hiểm ra khơi lần ày ,Dương nói tiếp : " Nếu như trong mấy tháng tới anh có gặp nạn mà thoát khỏi về sau đời anh sẽ có dịp phát đạt lớn. Theo tôi tốt hơn hết al2 không nên mạo hiểm ,nhưng nếu anh đã quyết tiếp tục ra khơi lâu ngày thì tôi hi vọng nhờ mắt anh báo hiệu là anh có thủ thần là sẽ hóa dữ ra lành. ".Nói xong đôi bạn chia tay.
Sau đó ,gia câu tụ tập đủ tay thợ quyết chí ra khơi ,và lần này đi rất xa bờ, hi vọng đánh được nhiều cá để gỡ lại các tổn thất trong thời gian trước. Ba tháng sau ngày giã biệt họ Dương, Câu ra khơi vẫn chưa trở lại , Dương cho là Câu đã gởi thân nơi miệng cá mất rồi ,trong lòng vô cùng thương tiếc. Nhưng khỏang bốn tháng, sau khi rời bến , Gia Câu đột nhiên xuất hiện tìm Dương Chiếu Thản cám ơn và ca tụng tướng pháp của Dương thật là vô cùng linh nghiệm.
Thực vậy, sau khi từ biệt bạn ,Gia câu ra khơi ròng rả 3 ngày đêm mới tới một nơi có nhiều cá để bổ lưới. Bất ngờ ,đúng lúc đó có cuồng phong nổi lên mà không có dấu hiệu gì ab1o trước nên mọi người bất phòng .Vì vậy , thuyền bị sóng gió làm bể nát. Gia Câu nhờ nhiều kinh nghiệm và bình tĩnh bám vào được một mảnh thuyền vỡ mà vô tình con khỉ khôn ngoan đã bám chặt vào đó hồi nào không rõ. Cả người lẫn vật bị sóng gió giạt vào một hoang đảo có rất nhiều ngọc trai .Lên đến bờ,
Câu vừa đói vừa mệt lả nên ngất đi ,một lúc tỉnh lại thấy con khỉ thân yêu đã ngồi vào cạnh với vài trái cây hoang dại. Nhờ vậy Gia câu có thực phẩm qua ngày. Từ đó. Câu khám phá ra đảo có ngọc trai nên tích luỹ được rất nhiều nhưng vô phương trở lại quê nhà chỉ còn hi vọng mỏng manh là ngày ngày dắt khỉ lên chỗ cao nấht của đảo nhìn ra khơi mong có thuyền bè qua lại để năn nỉ quá giang.
Một ngày kia, Câu và tên tiểu đồng khác giống đó đã mòn mỏ itrong việc quan sát ,sắp trở về chỗ tạm trú vì trời sắp tối thì bỗng nhiên gió tây bắc thổi mạnh ,một vật đen hiện lên ở chân trời rồi rõ dần trên mặt biển đang dao động ,Câu chú ý nhìn kĩ thì thấy đó là một chiếc thuyền câu có lẽ bĩ gãy mất bánh lái nên trôi nổi theo dòng nước ,lòng rộn ràng hi vọng và cầu ch othuyền giạt vào đảo.Quả nhiên đúng nưh vậy ,một lúc sau thuyền trôi đến gần đảo thì bị mắc cạn trên bãi cát. Gia Câu mừng quýnh, đứng lên chỗ cao lớn tiếng gọi người trong thuyền nghe tiếng thấy làm kì dị bèn rước Câu xuống thyuền .Sau khi đôi bên gạn hỏi, gia Câu mới biết đó là thuỵền đánh cá thuộc hệ thống gư phủ Aùo môn vì ra khơi quá xa bị gió lớn làm gãy bánh lái ,thổi tạt đến hoang đảo nàt ,Câu cũng bày tỏ nguồn gốc mình cho hay. Thế là cả bọn nhận nhau là người cùng xứ ,hợp tác cùng nhau sửa sang lại con thuyền bị hư hỏng rồi trở về áo môn với túi ngọc trai và con khỉ cứu tử.
Về nơi cư trú, Câu ban số ngọc trai tuh hoạch được trên đảo ,một phần nhỏ đền công cho chủ thuyền chở mình về xứ, còn bao nhiêu tậu đất xây nhà ,tao nên cơ nghiệp của một phú ông và bỏ hẳn nghề cũ.
Thời vua Thế Khải xưng đế ở Trung Hoa phản lại lời giao kết cách đây 40 năm nên gây ra cảnh nội chiến ,có một quân nhân cao cấp của chính quyền miền bắc là tứơng Lưu Hồng Tiêu tạo phản với ý định tranh bá đồ vương ,nhưng việc không thành, tài sản tiền bạc tiêu tan ,thân thể thương tích .Sau đó ,Lưu đế ncoi tướng thuật gia Liêu Trụ Thạch cho biết :tướng cách của ông do có thủ thần nên bị tai nạn mà không chết. Nhân vì mắt ông tròng đen nhiều ,lòng tắng ít lại thuần khiết phân minh mục quang sáng mà không lộ liễu, tĩnh thì an toàn khả ái, động tìh sáng rực có uy nên chung cuộc ắt là có phúc lộc rõ ràng. Hiện tại ông nên chuyển sang nông nghiệp bỏ võ thì có cơ đại phát tài.
Lưu Hồng Tiêu nghe lới ,trở về quê cũ ,tậu được vài chục mẫu ruộng trồng mía.Thực hành câu giải đáp uy điền. Quả nhiên vài năm sau đại phát và trở thành cự phú.