1-) La kinh phân châm:
a- La kinh thông thường:
Ngoài cách phân bổ vòng tròn của la bàn ra làm 24 cung người ta còn phân làm 60 cung , mỗi cung 6’ gọi là “phân châm”
b- Phân châm theo Huyền Không:
Cách phân châm theo cách trên có nhược điểm là hay bị vào tuyến “đại không vong” hoặc “tiểu không vong”. Theo Huyền không thì phân châm mỗi cung 3’ vị chi là 120 cung. Cách này được Thẩm trúc Nhưng (tác giả cuốn Thẩm Thị Huyền Không) phát triển và dùng cho tới ngày nay.
Muốn áp dụng phương pháp Phân kim điểm thần sát đòi hỏi người xem phải có kinh nghiệm đồng thời dụng cụ đo đạc cần chính xác vì chỉ cần lệch một chút là đã cho kết quả khác, đặc biệt là tìm tâm nhà. Đặt la kinh vào tâm nhà để xác định TÂM cửa chính nằm trong cung nào.
BÀI TỰA VỀ LA KINH
XÉT VỀ PHƯƠNG PHÁP CHẾ TẠO LA KINH :
Trước hết do vua Hiến Đế chế tạo ra, sau ông Chu Công bắt chước và dùng kim chỉ nam,để định phương vị . Tuy nhiên , khi ấy chỉ có 12 địa chi . Đến ông Trương Lương nhà Hán , mới phối hợp với bát can,(tám phương vị về thiên can) , và tứ duy( là 4 phương :kiền ,khôn ,cấn ,đoài vào khoảng giửa 12 chữ hàng chi và đặt tên là Địa bàn .Đến Dương Công và Lại công hai vị thêm hai 2 tầng nữa ,gọi là Thiên bàn và Nhân bàn ,tất cả gộp lại gọi là Thấu bàn tức Tam tài ).Trong đó tất cả hành độ của các tinh tú đều được trình bày đầy đủ , diễn tả được những bí mật và ngũ hành của Hà Đồ, Lạc Thư ; phơi bày những sự hiện, tàng ,kỳ diệu của các quẻ .Đến vua Phục Hy và Văn Vương , những cái kỳ diệu của các quẽ ,biết được tinh vi và thể ,dụng rộng rãi , biến hoá vô cùng ! Bao la vậy thay ! Gồm hết thảy muôn ngàn hiện tượng cả dọc ngang trên trời đất . Trên có thể hiểu thấu được hành độ của các vì sao luân chuyển ;dưới có thể phân biệt được núi, sông , phương hướng tốt xấu ;giửa có thể định được Dương cơ ,Âm phần cho mọi người , về sự phúc hoạ v. v. .dùng làm được muôn việc, thật là quý báu vô cùng !
Từ đời Hán , Tấn , Đường , Tống đến nay , nhiều bậc danh nhân , hiền sĩ nổi tiếng , ngoài 4 vị họ Dương , Tăng , Liêu , Lại ra , cũng không thiếu gì những người làm việc phúc đức để giúp ích cho những người nghèo , rất là linh nghiệm .
Xét về cách trước thư lập ngôn của các vị này , ta thấy căn cứ vào các Tinh thể , Sơn loan , nhưng thực dụng lại phải căn cứ vào La Kinh . Những nhà Địa lý sau này , giảng về Loan Đầu , chọn hình tượng , đặt cách đo hoạch , chia ra nhiều môn , nhiều kiểu , đua nhau ra đời . Tuy nhiên giảng về La Kinh mà không biết yếu điểm của Địa lý : là "lấy Loan Đầu làm Thể , La Kinh làm Dụng " là chưa rõ nghĩa của La Kinh , mà làm sai 1 ly thì sai đi 1 dặm . Nếu La Kinh không rành thì không thể căn cứ vào đâu để phân biệt Long , Huyệt , Sa , Thủy ; thật , giả , tốt , xấu . Như vậy , dẫu có được Loan Đầu thích hợp , cũng luôn luôn lâqnx lộn vị trí giửa tốt và xấu ,khiến cho nước hung , khí sát xung vào hài cốt , làm cho hao người tán của , sự tai hại là vô cùng không thể tránh thoát . Ngưới đời thường nói : Thầy Địa lý không rành làm tai hại cả toàn gia tông tộc ! Lời ngạn ngữ ấy rất đáng tin . Tôi đã học tập nhiều năm về Địa lý , hiểu biết khá rộng về sự tốt xấu của các Tinh , Loan , thế mà , khi chọn lựa Tinh đẩu vẫn còn sợ chưa hiểu thấu rành rẽ về La Kinh , rất khó quyết định được họa , phúc . Sau đó tôi tìm tòi các sách cổ , kim và tìm thầy học đạo , đem hết tâm trí đẻ nghiên cứu La Kinh , lặn lội đi khắp mọi nơi , thăm những ngôi mộ danh tiếng để khảo nghiệm về họa phúc , không 1 chút điểm sai lầm . Như vậy mới hiểu rằng 3 yếu tố quan trọng của Địa lý : trong có thể tự hỏi mình , ngoài có thể chất vấn người khác , và khi chọn 1 ngôi mộ cho ai phải làm sao chọn được chỗ tốt , tránh được nơi xấu , không xảy ra sự suy bại tai hại cho người . Bởi vì khoa Địa lý rất là tinh vi , nào là Xuyên Sơn Thấu Địa , Tiêu Sa , Nạp Thủy , Phân Kim , Tọa Độ , tầng thứ rất phiền phức , lý luận rất sâu xa . Có khi nhiều tầng chia ra để dùng , có khi 2 tầng kiêm dụng chung cả , có khi 1 tầng dùng cho 2 việc , có khi nhiều tầng hợp lại mà thông dụng , đó là những biến hóa vô cùng huyền diệu , ta phải có linh cảm để mà hiểu thấu chi ly , nếu sai 1 chút , sẽ bị ảnh hưởng rất lớn . Nay tôi căn cứ vào La Kinh gồm có 36 tầng của người xưa , viết thành sách để phổ biến ra 4 phương , cho mọi người đời sau cùng biết , có thể căn cứ vào các đồ án để chọn Loan Đầu , cho tận thiện , tận mỹ , để việc tạo phước khỏi bị sai nhầm .
Bài tựa này làm tại : Thái Nguyên Tứ hợp đường âm dương học
Vương Đạo Hanh viết ở Phượng Sơn thư trai
Mùa thu năm Quý Mùi , thời vua Đạo Quang thứ 3 .
BÀI TỰA II
Ngày xưa bậc Thánh nhân làm ra Kinh Dịch , ngẩng lên có thể xem Thiên Văn , cúi xuống có thể xét Địa Lý . Người ta còn nói : cái Đạo dựng lên Trời là Âm Dương , cái Đạo dựng lên Đất là Cương Nhu ( cứng mềm ) , đó là nguyên nhân của thuyết Địa Lý . Vậy trong Kinh Thi nói : Quan sát về Âm Dương , nhìn xem dòng suối chảy lại càng rõ rệt nghĩa lý hơn nữa .
Từ đời nhà Tần , nhà Hán tới nay , không thiếu những người tinh rành về Địa Lý : Quách Cảnh Thuần đời Tấn , Dương Quân Tùng đời Đường , thông hiểu thấu đáo lẽ huyền diệu của Địa Lý , hiếm có trên đời .
Gần đây đa số các nhà nho không nghiên cứu về Địa Lý , thường chôn hài cốt của thân nhân vào nơi không Long , không Huyệt , Thủy tán , Sa phi , khiến cho nước ngấm , kiến mối phá hoại , làm cho tuyệt tự hậu nhân , thật là đáng thương ! Người đời thường nói : Muốn thành người hay , nên biết làm thuốc và địa lý . Lại có chỗ nói : nếu núi sông mà biết nói thì mặt thầy địa lý sẽ xám như đất chết , phủ tạng của con người mà biết bảo thì thầy thuốc không có chỗ hành nghề ! Như thế nói rõ là Địa Lý rất khó , còn quan trọng hơn làm thuốc ! Cho nên học thấp kém mà ra làm thầy , lừa dối người không biết , thì mang tội vào người không ít !
Đời Tống có hai nhà nho là ông Chu , ông Thái , tinh thông về khoa Địa Lý , có viết những cuốn sách bất hủ truyền cho đời sau . Tại sao người ta không kiếm những sách ấy mà coi ?
Vì vậy , khoa Địa Lý ngoài 4 ông Dương , Tăng , Liêu , Lại , ít có người tinh thông .
Tóm lại , về Địa Lý chỉ có Loan Đầu và Thiên Tinh mà thôi ! Loan Đầu tức là Hình Thể , Thiên Tinh tức là Lý Khí . Hai yếu tố quan trọng như nhau . Hình Thể ở trong Trời Đất , khiến cho người ta có thể nhìn ngang , nhìn dọc , trông xa , trông gần ; người tinh mắt có thể quan sát dễ dàng . Những cuốn sách như : Trầm Tân Chu Địa Học , Toàn Phong Nguyên Bản , Sơn Dương Chỉ Nê , Kham Dư , Nhất Quán ...vv...đã nói rõ ràng và đầy đủ .
Còn về Lý Khí thì chắc chắn phải nghiên cứu La Kinh , tìm hiểu sâu xa về Nhị Khí , Ngũ hành , mặc khải được những huyền bí của Hà Đồ , Lạc Thư . Rộng ra thì có 36 tầng , hẹp lại thì có 15 tầng , rất quảng đại , rất tinh vi . Nếu không có người chỉ dẫn , giảng dạy , thì không có thể căn cứ vào đâu để ý thức được sự huyền diệu . Có người nói rằng : Hình Thể không đẹp , dầu Lý Khí có hợp cục cũng không dùng được ! Lời đó cũng đúng . Nhưng Hình Thể tốt , mà Lý Khí không hợp , thì đất tốt nhưng cách táng xấu cũng không phát phúc được . Phương chi đại địa rất ít , không phải người có đại đức thì không thể được . Còn những núi đồi tầm thường , thì dẫu có Lý Khí không hợp lắm , mà muốn cho con cháu nối truyền , no cơm , lành áo , bình an , cũng phải dùng La Kinh để tìm Địa Lý cho khỏi phạm sát thì mới được . Vì vậy người làm Địa Lý phải tận tâm phân tách tỉ mỉ để phân tim tốt , tránh xấu . Ông Định Ấp Vương Đạo An khi còn nhỏ học nho , lớn lên học Địa Lý , ngấm ngẫm nhiều năm , thường chê người đời chỉ giảng Hình Thể mà không tìm học Lý Khí , nên đã gây tai hại vô cùng ! Vậy sau khi đọc hết các sách nghiên cứu , các ngôi mộ có danh tiếng , tìm hiểu về nguồn gốc của phúc , họa , thực nghiệm nguyên nhân của sự giàu nghèo , ông viết ra cuốn La Kinh Thấu Giải này , và nhờ tôi viết bài tựa , khi đó tôi làm Tri Huyện ở Mậu Châu , nhân có kỳ thi tại tỉnh đọc sách của ông , mới biết là ông lưu tâm giúp đời để mọi người an táng cho thân nhân mình , được hài cốt yên lành , gầy hạnh phúc cho con cháu đời đời thịnh vượng . Còn việc tìm đất thì cần phải hợp với thiên lý , . Người có Đức lớn , thì gặp được đất lớn , đó là tất nhiên , không còn ngờ vực gì nữa . Người đời đừng cho là lời bàn tầm thường của các ông già quê mùa , mà không chịu lưu ý đến những lời chỉ dẫn quan trọng về âm chất thẩm , thiên của cổ nhân .
Bài tựa này làm tại Mậu Châu , viết vào hạ tuần tháng 5 , năm
Quý Mùi , niên hiệu Đạo Quang thứ 3 .
Học Chính Nhiếp Nguyên Chương soạn .
VƯƠNG THỊ LA KINH THẤU GIẢI
TÂN ĐÍNH QUYỂN ĐẦU
Biên soạn : Thục Đồng Âm dương học , Vương Đạo Hanh
Hiệu chính: Định Ấp Nho trí Vương Thiệu Chí
Tham duyệt: học trò là : Lý Duy Tân,Chu Quốc Hồng,Đặng Quan Vũ,Trần Vạn Bằng.
-------------------------------
Long mạch chia làm 24 vị khí , thuộc về Ngũ Hành , Âm Dương mất hay còn mặc dầu , căn cứ vào Hướng , Long , Huyệt , Sa , Thủy , nhưng then chốt của họa phúc đều căn cứ ở trong một cái huyệt. Chính giửa huyệt mà chiếu đủ Tiêu Sa , Nạp Thủy và Thừa Khí , cần phải rành rẽ cách phân châm , để thực hiện 3 điều trọng yếu :
-
Khi xét về Long , phải coi kỹ chỗ Xuất mạch
-
Coi về Huyệt , phải nhận kỹ chỗ Động khí.
Coi về Thủy lai , phải coi kỹ chỗ Thủy triều lại ; ở trước mặt Huyệt coi Thủy khứ , phải coi kỹ chỗ cửa miệng nước chảy ra đi. Coi về thủy phải coi về sự hợp cục và phá cục. Coi về Long lai thì phải coi chỗ Long Nhập Huyệt ( hoặc là phía sau ). Coi về Hướng thì phải coi ở đằng trước. Coi Thủy lai thì phải coi ở chỗ nước chảy tới tới ( Minh Đường). Coi Thủy khứ thì phải coi chỗ nước chảy đi ra ( Ngoại Minh Đường)
Nếu không rõ hình thế mà đặt La Kinh cẩu thả , bậy bạ , thì tai hại vô cùng ! Người đời xưa nay đều nói : Thầy thuốc lầm chỉ hại 1 mạng người , thầy địa lý lầm làm hại cả dòng họ người ta !
Bởi vì , chỉ có Tuyệt Hướng mà không có Tuyệt Long , tức là không sai về Sa , Thủy , mà chỉ bị về Lập Hướng sai vào phương Khắc Sát , mà bị Tuyệt thôi ! Xin các Thầy Địa Lý trong thiên hạ , nên lưu ý để cho những người hiếu tử , hiếu tôn được nhờ ơn Thầy , được ngôi mộ của Tiền nhân an lành , phát phúc cho cháu chắt đời sau , thì không phúc gì bằng !
Những sách tham khảo :
_ Thanh triều khâm định hiệp kỷ : để phân biệt Ngũ Hành , bàn về các sao và ngày tháng.
_ Duyên đàn tử : Phân biệt Sa , Thủy và phân chia cung vị.
_ Lưu thị gia tàng : Nói về ngày tháng.
_ Nhất quán kham dư : Nói về tinh thể và La Kinh.
_ Tứ đàn tử : Nói về các Tinh thể và Thủy pháp.
_ Tượng cát : Nói về năm tháng.
_ Chính kỷ nhất thống : Nói về Xuyên sơn thấu địa.
_ Thiên cơ hội nguyên : Nói về Tinh thể địa bàn.
_ Ngao đẩu : Nói về năm tháng và quái lệ ( các quẽ )
_ Đính hỗn châm : Nói về Ngũ hành , Thiên Văn , Địa lý.
_ Bình địa ngũ tinh : Nói về Dương Trạch.
_ Nguyên chân : Nói về Thủy khẩu và Tam hợp.
_ Địa lý bất cầu nhân : Nói về Tinh thể địa bàn.
_ Thanh lang kinh : Nói về Quái lệ ( các quẽ ).
_ Tào an phong : Nói về Tinh thể ( hình dạng sơn sa )
_ Tuyết tâm phú : Nói về Tinh thể.
_ Ngọc tủy kinh : Nói về Tinh thể
_ Sơn dương chỉ mê : Nói về Tinh thể.
_ Ngũ chủng bí khiếu : Nói về các quẽ và Địa bàn.
_ Sùng Chính tịch mậu : Nói về năm tháng và Ngũ Hành.
_ trần tân chu : Nói về Tinh thể.
_ Địa lý thống nhất toàn thư : Nói về Tinh thể.
_ Trần tử tánh : Nói về năm tháng ngày giờ.
_ Ngọc xích kinh : Nói về Thiên văn và Địa lý.
_ Địa lý đại thành.
Cần phải đọc sách của các bậc danh sư , trong đó có nhiều điều chỉ dạy huyền bí.
-------------------------------
MỤC LỤC CÁC TẦNG CỦA LA KINH
Tầng 1 : Là Tiên Thiên bát Quái biến thành Hậu Thiên Bát Quái. Tiên Thiên làm cái bản thể , Hậu Thiên làm cái sử dụng. Dùng Hậu Thiên không được phá Tiên Thiên , chỉ dùng Hậu Thiên chứ không dùng Tiên Thiên , nhưng vẫn có Tiên Thiên ở bên trong.
Tầng 2 : Lạc Thư biến thành Tứ Tượng. Hóa Hậu Thiên thành Cửu Tinh ( 9 sao ) , chia Lục Giáp thành 120 phân kim , ngang dọc 16 cái và 5 số.
Tầng 3 : Bát Quái Hoàng Tuyền , tức là Quan và Quỹ của Tiên Thiên Bát Quái , hòa hợp với Ngũ hành để sử dụng trong việc : Long thời kỵ Thủy lai , Lập Hướng thì kỵ khắc Long.
Tầng 4 : Là tứ lộ và Bát lộ Hoàng Tuyền bạch Hổ ( tức sao sát ) của Địa Chi , quay đi trở lại. Hướng về Bát can thì kỵ Tứ duy Thủy lai , Hướng Tứ duy thì kỵ bát can Thủy lai ; nghĩa là 4 phương Hoàng Tuyền , 8 phương Khắc Sát ,l nước chảy đi thì tốt , nước chảy lại thì xấu. Nếu phạm thì hao người tốn của.
Tầng 5 : Cửu tinh ứng vào cục đất để phân biệt Long tốt xấu , coi sắc đất biến đổi mà tìm Huyệt , tương ứng với thứ vị của 24 vì Thiên tinh mà lấy dùng.
Tầng 6 : Kim chính thức của Địa bàn dùng để xem Long lai , định hướng , thừa khí nhập Huyệt ; Lập Trạch , An Phần chọn âm dương. Tóm lại , cả 36 tầng đều căn cứ ở tầng này vận chuyển mà sử dụng.
Tầng 7 : Âm và Dương Long của Tiên Thiên Bát Quái , Kiền Nam , Khôn Bắc , Ly Đông , Khảm Tây , ở 4 phương chính là Dương ; Chấn , Tốn , Cấn , Đoài ở 4 phương góc tức là Tứ Duy của Tiên Thiên là Âm. Mỗi quái Nạp Âm đều có Can và Chi là nửa Âm , nửa Dương. Phép biến Thủy không được sai lầm về Âm Dương.
Tầng 8 : Chính Ngũ Hành , tóm hết thảy cả trong địa bàn , nguồn gốc là do Hà Đồ mà ra , phân Đông Tây Nam Bắc , 24 sơn và sự tương khắc của Kim , Mộc , Thủy , Hỏa , Thổ để sử dụng.
Tầng 9 : Là Kiếp sát , lấy Tọa Sơn làm chủ , chỉ kỵ 1 sơn xấu , hoặc nghiêng ngã , vỡ lỡ thôi , còn tốt thì không kỵ.
Tầng 10 : Là 72 Long Xuyên Sơn , ở trong Địa Bàn ghi 60 Giáp Tý , trong 5 cung Tý có 12 chữ chính màu đỏ là để chỉ 4 phương tứ duy và 8 phương bát can , thấu thành 72 Long , lấy lẽ Long Nhập Thủ thừa tiếp với thấu địa khí 1 mạch rót suốt vào Huyệt , và để phù hợp với 72 thời tiết mỗi năm.
Tầng 11 : Xuyên Sơn làm quẽ gốc , sách Chu Dịch gọi là Thiên Thông. Trong Kinh Dịch lấy quẽ Kiền làm đầu , nói : Thiên Địa biến hóa ra quái , hào để bổ trợ cho Lai Long ; Tọa Huyệt là chủ của Thể , Dụng.
Tầng 12 : Là Trung Châm thuộc về Nhân Bàn , tham hợp với Thiên-Địa 2 bàn , là Thiên-Địa-Nhân tam tài. Ông Lại Công lấy để Tiêu Sa và tham hợp với Ai Thiên Tinh và Nhị Thập Bát Tú , để làm biểu lý , bàn về Thái Dương đáo Sơn , và 12 vị Tiến Xá Tinh ; và đến 12 cung phân ranh giới 24 vị Thiên Tinh , Thấu Địa Kỳ Môn , tất cả đều do tầng Trung bàn này thông dụng.
Tầng 13 : Là 60 Long Thấu Địa. gọi là Thiên Kỷ , ở phía sau ngôi mộ hay là ngôi nhà khoảng 8 thước chỗ Loan Đầu phân khí dẫn suốt tới. Có các chữ Vượng , Tướng , Châu Bảo , sát Diệu , Hỏa Khanh , Cô Hư , Sai Thác và Không Vong , để phân biệt lấy quẽ xung hòa 9x6= 54 là Vượng Tướng , không xung hòa là Không Vong.
Tầng 14 : Là Thấu Địa Kỳ Môn , người ta lấy 2 quẽ độn Tử Phụ, Tài Quan , Lộc Mã Quý Nhân , Âm Dương làm gốc để khởi lệ.
Tầng 15 : Là Thấu Địa Quái , lấy Thấu Địa làm nội quái , gọi là quẽ Liên Sơn. Nhà Hạ dùng Nhân Thông , nên Kinh Dịch lấy quẽ Cấn làm đầu , quẽ phối thì lấy Hỗn Thiên Ngũ Hành , phối hợp với quẽ Tử Phụ , Tài Quan , Lộc Mã Quý Nhân là Tứ Cát ( 4 cái tốt ) của Sa , Thuỷ làm đắc dụng.
Tầng 16 : là Thấu Địa 60 Long phối hợp với 28 ngôi sao , ngũ thân ( 5 cái gần ) Sa , Thủy , Cầm Tinh, để quản cục trì thế , một cách tự nhiên mà dùng.
Tầng 17 : Định phương vị của Tứ Cát là : Ngũ Thân , Tam Kỳ , Bát Môn , Cửu Tinh đáo Sơn.
Tầng 18 : Là Phùng Châm Thiên Bàn để biến Thủy Lai và Khứ. Đây là quẽ phiên của Dương Công , gồm có có 9 sao là Thiên Phụ Quái , phiên : Bật , Phụ , Vũ , Phá , Liêm , Tham , Cự , Lộc , Văn làm Cát , Hung thần , để đoán phúc họa do ở luật Tịnh Âm , Tịnh Dương mà ra.
Tầng 19 : Là 240 phân số , do Lạc Thư chia ra 16 cái , 15 số dọc , ngang thành 240 phân số , chia cho 24 sơn , mỗi sơn 10 số. Đây là nguồn gốc của phân kim.
Tầng 20 : tầng Địa bàn phân kim , gia giảm 2 phân , 8 phân ( 2/8 ) : giảm Sa , Thủy , Minh Đường không ngay , Khắc Mệnh , Khắc Long , vì vậy mới có sự gia giảm bên 3 phân , bên 7 phân ( 3/7 ).
Tầng 21 : là tầng Thiên bàn phân kim , gia , giảm tam , thất ( 3/7 ). Mỗi Sơn có 5 chữ phân kim , như Tý Sơn thì có : Giáp Tý , Bính Tý , Mậu Tý , Canh Tý , Nhâm Tý , thì Giáp Ất là Cô ; Nhâm Quý là Hư ; Mậu Kỷ là Sát ; Bính Đinh là Vượng ; Canh Tân là Tướng ; để tránh sự gác giây , sai lầm vào Không Vong...vv..thì tai hại lắm !
Tầng 22 : là phân biệt khoảng Vượng , Tướng , Cô , Hư. Lấy Bính , Đinh , Canh , Tân , chỉ vào khuyên chữ đỏ là Vượng Tướng. Mậu Kỷ chỉ chữ Thoa ( X ) là Sát Diệu. Giáp , Ất , Nhâm , Quý chỉ điểm đen là Cô , Hư , Không , Vong.
Tầng 23 : là phân kim phối với Địa Nguyên , thuộc quẽ Ly tàng , là quẽ ở ngoài. Nhà Ân dùng Địa thống , nên Kinh Dịch lấy quẽ Khôn làm đầu. 60 quẽ phối với 60 phân kim , lấy quẽ Kim lưỡng toàn làm Vượng , Tướng , gọi là Đắc Kim. Ngoại trừ 4 quẽ Khảm , Ly , Chấn , Đoài , là quẽ Tiên Thiên chính thức ứng với 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông , mỗi mùa giữ 1 quẽ , mỗi quẽ 6 hào , mỗi hào gồm 15 ngày ( 4x6=24 ) , 24 hào gồm 24 tiết khí , ngoài 60 quẽ , mỗi tháng 5 quẽ , mỗi quẽ 6 ngày ( 6x60=360 ) , nên mỗi năm có 360 ngày.
Tầng 24 : là Nạp Âm Ngũ Hành , 60 Giáp Tý , Thiên Can , Địa Chi phối hợp , do Tiên Thiên Bát Quái lấy Nạp Giáp phối. Ngoại trừ quẽ Kiền và quẽ Khôn là Đại Phụ Mẫu không kể , nếu Thiên Can gặp Tý , Ngọ , Sửu , Mùi tại Chấn , Tốn , sẽ do 2 quẽ suy luận ; Thiên Can gặp Dần , Mẹo , Thân , Dậu tại Khảm , Ly sẽ do 2 quẽ suy luận ; Thiên Can gặp Tuất , Hợi , Thìn , Tị tại Cấn , Đoài sẽ do 2 quẽ suy luận ; Theo phương pháp Dụng , lấy 9 Mộc , 7 Kim , 5 Thủy , 3 Hỏa , 1 Thổ. Đặt tại cửa đầu kim , phải biết ý nghĩa sâu xa.
Tầng 25 : là phương vị của 12 cung , nếu được Tinh phong đẹp đẽ , Sa -Thủy trong sáng , được chứng ứng ở phương nào , thì cung ấy phát quý , hưởng lộc.
Tầng 26 : là vị trí của 28 ngôi sao , ngôi nào đóng ở độ số nào , thì ứng với tỉnh , châu , thành , huyện ở cung ấy ( ở dưới đất ).
Tầng 27 : là 24 khí tiết của hàng tháng đón Thái Dương đến cung , tránh Hung sát , tìm Tốt lành : tức là cung Trục Nguyệt , lấy 4 cái Đại Cát Thời làm Thần Tàng sát để Tạo , Táng , thì được Thượng Cát ( tốt trên hết ).
Tầng 28 : là vị trí của 12 Tướng Đăng Minh , đón Thái Dương đến cung , nửa tháng tới 1 Sơn , mỗi tháng qua 1 cung , đi ngược lại 24 sơn , tức là cung Đăng Minh.
Tầng 29 : là 12 vị tinh thể Nghinh Thái Dương đáo cung triều xá , mỗi tháng giửa kỳ khí tiết , để rước Quý Nhân lên Thiên môn.
Tầng 30 : là cung xá quán dịch , tức Thần Thái Dương. Đem văn , võ bá quan đến chỗ chân thủ , mỗi tháng cùng Thái Dương qua 1 cung , Tạo Táng gặp ở cung này rất tốt, mọi cái sát tiềm tàng hết.
Tầng 31 : là 24 ngôi Thiên Tinh chiếu vào cục đất , chia ra Tam Cát , Lục Tú , Cửu Tinh ; Sa , Thủy Thôi Quan , phát phúc. Nếu được Sơn quý tất xuất Đại Cát Quý. Tiên Thánh nói : Long lấy xung hòa làm đẹp ; Tinh lấy được phối làm tốt , chính chỗ này vậy.
Tầng 32 : là Hỗn Thiên Ngũ Hành tinh độ , tại 28 vì sao , chia làm Thất Chính ( 7 vị Chủ tinh ) đều có định , sở , thuộc 1 sao ; cũng có ngũ hành ở trên : Kim 12 , Mộc 13 , Thủy 12 , Hỏa 12 , Thổ 12 , cộng có 61 vị. Duy có cung Cấn là nhiều thêm chữ Mộc. Đây là Ngũ Tinh Đăng Viên ( 5 sao đến cục ) , Ngũ hành cùng với Xuyên sơn , Thấu địa , Phân kim , sự Cát , Hung cùng là cái ở trong , cái ở ngoài , lại hợp với 72 khí tiết , 365 độ trong 1 năm.
Tầng 33 : là chia đều 60 Long , tham hợp với 61 Hỗn Thiên ( tức Hỗn Thiên Ngũ Hành ) , mỗi chữ 1 Long , mỗi chữ quản 6 ngày , thành ra 365 ngày 3 giờ , để ứng với 72 thời tiết của độ số trong 1 năm. Địa bàn căn cứ vào đó căng giây , Phân kim , Thấu địa , Toa huyệt mà dùng. Trong sách Ngỏa Vương hợp tượng cát thư , còn có 24 sơn Thấu Địa Long , thừa khí nhập huyệt.
Tầng 34 : là ngang , dọc độ số của 28 sao , hợp với Nhân bàn có 365 vạch. Trong giới hạn độ số của mỗi sao , chia ra Thượng quan , Trung quan , Hạ quan ( quan là cửa ) để dùng làm cung vị Tiêu sa , là phép của Ai tinh.
Tầng 35 : là định sự Sai thác và Không vong , có điểm đỏ , chấm đen để gát dây Phân kim , cùng với Xuyên sơn , Thấu địa làm cái ở trong , cái ở ngoài liên quan nhau. Khi giăng dây Phân kim phải đặt trên điểm đỏ , không được đặt vào điểm đen , nếu lọt vào khoảng của chấm đen một nửa sợi tơ tóc là hỏng.
Tầng 36 : là 28 sao phối hợp với 24 sơn , và Trung châm Tiêu sa của Nhân bàn , gọi là phép Ai tinh. Lấy sao của sơn Tọa Huyệt làm chủ ; lấy sao ở đằng trước làm Hướng ; và tả , hữu làm Khách. Huyệt trường là Ngôi Bắc Thần ( sao Chính chủ ) , Sa , Thủy là Nhị Thập Bát Tú ( sao phụ tá ). Cũng như sao Bắc Đẩu có các sao khác chầu vào. Vậy sách nho có câu " Thí như Bắc Thần cư kỳ sở , nhi chúng Tinh củng chi " chính là bảo về nghĩa thế.
Trên đây là 36 tầng La Kinh , tôi tham khảo các kinh sách của các vị Tiền Hiền , lập ra La Kinh toàn đồ và chỉ dẫn phép sử dụng minh bạch. Phân phối phổ thông ra bốn phương trong thiên hạ , để mọi người cùng biết sử dụng mà tìm lành , tránh dữ cho công việc tạo phúc khỏi bị nghi hoặc và sai nhầm.
KHÂM ĐỊNH LA KINH THẤU GIẢI
QUYỂN THƯỢNG.
---------------------
Bàn về việc dùng La Kinh không khác gì : Đứng trên bờ suối , lượng bóng cây. đo chiều sâu...
La Kinh đầu tiên là do Hiên Viên Hoàng Đế đi đánh Si Vưu bị lạc đường. Thượng Đế sai bà Cửu Thiên Huyền Nữ hiện xuống , chỉ cho cách mà đặt ra phương hướng , mới phá tan được yêu thuật của Si Vưu. Phép dùng kim -chỉ -nam là có từ khi đó , tuy nhiên , câu chuyện có vẻ hoang đường.
Có người nói do ở vua Thành Vương nhà Chu. Khi ấy nước Việt thường đến triều cống. Khi về sứ giả quên đường cũ , sợ lạc lối , nên vua nhà Chu cho chế ra Chỉ-nam-xa ( xe có kim chỉ nam bắc ) để dẫn đường. Từ đó La Kinh mới dùng kim pháp để định vị trí , quan sát khí thế để thừa khí vào huyệt mà đặt táng Âm phần.
Xét hành độ của các thiên tinh xung hợp , lấy sinh, vượng khí , phân tích rõ rệt tính chất của Tiên Thiên , dùng Hậu Thiên để xem Thủy lộ chảy đi , chảy lại ; xét kỹ càng về họa phúc do hào ly ở nơi sai, đúng , làm cho Trời không đổi được mạng người. Vì vậy người trí thức có tài năng , am hiểu về địa lý , thiên văn , thì có thể đoạt được thần công , cải được Thiên mệnh ! vậy đất có nhiều cái không hoàn toàn mỹ mãn , nên phải thay đổi , thêm bớt ít nhiều để tránh sự hung , tìm cái lành. Vì vậy ý nghĩa của Tam Tài là cần yếu phải xem ở La Kinh , mới rõ ràng được chí lý. Trên xem được Thiên thời , dưới xét được Địa lợi , giửa có thể quyết định được nhân sự. Ngoài ra không còn cái gì khác và phải đạo lý hơn cả.
Luận Thái Cực Hóa Sinh :
1/. Thái Cực là Hoàng Đạo , Ngũ Hành thiên biến , vạn hóa là do ở đó.
2/. Tượng ( Lưỡng Nghi ) tức Âm và Dương , là Kiền Khôn ( trời đất )
3/. Tam Tài ( là Trời , Đất , Người ).
4/. Tứ Tượng ( là Đông , Tây , Nam , Bắc ).
5/. Ngũ Hành ( là Kim , Mộc , Thủy , Hỏa , Thổ ).
6/. Lục Giáp ( là mỗi 60 năm là 1 Nguyên , có Thượng Trung Hạ Nguyên ).
7/. Thất Chính ( là Nhật cầu , Nguyệt cầu và 5 vì Tinh tú ).
8/. Bát Quái ( là Kiền , Khảm , Cấn , Chấn , Tốn , Ly , Khôn , Đoài ).
9/. Cửu Cung ( là Tham , Cự , Lộc , Văn , Liêm , Vũ , Phá , Phụ , Bật ).
10/. Thành số ( theo ở Lạc Thư , thì 1 được thêm 9 thành 10 , gọi là Hợp Thập ).
KHẢO NGHIỆM LA KINH
( Khởi lệ , dụng pháp , đối chứng ).
-------------------------
La KInh chế ra tập trung được tất cả mọi tinh hoa của Trời Đất. Nguyên bản Thái Cực là tinh chất của Thiên Địa ngưng đọng lại , là căn bản của vạn vật. Đặt tên là La Kinh , vì chữ La có nghĩa là " bao la vạn vật " ; Kinh có nghĩa là kinh luận " Kinh Thiên Vĩ Địa , là trải khắp cả ngang Trời , dọc Đất ". Sở dĩ lập ra có qui cũ ( khuôn mẫu ) quyền cái , khinh trọng , thành ra vuông , tròn , chẳng cái gì mà không do cái Kim Châm ( kim vàng chỉ nam , bắc ) và cái Thiên Trì ( vòng tròn ). Trước hết để định về Phong Thủy , giả sử cái La Kinh mà không có Thiên Trì , thì không quyết định được phương Tý , Ngọ ; không phân biệt được Âm Dương ; không hoạch định được Bát Quái , Cửu Cung ; Ngũ Hành lẫn lộn , không sử dụng được 2 đầu mối của Can Chi ; không biết được Long , Hướng , Khí , Mạch hay dỡ thế nào , lấy gì mà làm căn cứ ? Vậy nên phải có Kim Châm ở trong vòng Thiên Trì. Động thì Dương , Tĩnh thì Âm . Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng , phân ra Bát Quái ; định vị Cát Hung , tự nhiên hóa hóa , sinh sinh , vô cùng vô hạn !
Nguyên bản của Trời Đất không phải là ở đầu cực , mà ở 1 điểm chính giửa đỉnh châm làm tổ khí , và cũng là căn bản của vạn vật , vạn hóa.
Phân xét : Ngoài Thiên Trì ra thì La Kinh tức là Thái Cực , phải lấy giửa Tý , Ngọ mà phân làm Lưỡng Tượng ; Lưỡng Tượng hợp với Mẹo , Dậu làm Tứ Tượng ; Tứ Tượng hợp với Tứ Duy làm Bát Quái ; Bát Quái định được rồi thì mọi phân vị đều được minh bạch quyền hành phận sự. Tức là Thiên Đạo , Địa Đạo , Nhân Đạo đã thiết lập định hoạch tinh tường.
Có bài thơ : Hư , Nguy chi gian châm độ minh.
Nam phương Trương độ thượng tam thừa.
Khảm Ly chính vị , nhân nan thức.
Sai khước hào ly , đoán bất linh.
Nghĩa là : trong khoảng sao Hư và sao Nguy đã phân rõ ranh giới ; phương Nam thuộc về độ phận của sao Trương , trên có 3 vị liên tiếp ( Bính , Ngọ , Đinh ) ; Khảm và Ly là ngôi chính khí , đời ít có người biết ! Nếu làm sai 1 li , thì đoán họa , phúc không linh nghiệm.
TẦNG THỨ 1 : TIÊN THIÊN BÁT QUÁI
Tiên thiên bát quái là do 2 vị thánh :Văn Phục Hy và Văn Vương chế tạo ra, phù hợp với đức độ của trời đất và sự quang minh của nhật nguyệt thứ tự thời tiết của 4 mùa, cùng sự cát hung của nhân gian, như là có linh ứng của quỷ thần.
Do thái cực chia ra động và tĩnh để làm lưỡng tượng tức Âm Dương...Do ở trong Dương tượng mà sinh ra Thái Dương và Thiếu Âm. Do trong Âm lượng mà sinh ra Thái Âm và Thiếu Dương:tức lá tứ tượng.
Do Thái Dương mà sinh ra Kiền 1, Đoài 2.
Do Thiếu Âm mà sinh ra Ly 3, Chấn 4
Do Thiếu Dương mà sinh ra Tốn 5, Khảm 6.
Do Thái Âm mà sinh ra Cấn 7, Khôn 8
Đó là 8 cung của bát quái.
Bát quái quyết định việc tốt xấu; tốt xấu sinh ra tất cả mọi việc hay dở.
Nét vạch của quái(tức quẻ) thì có chẳn,lẻ như là : quẻ Kiền thì tam liên (tức 3 gạch liền ).Khôn lục đoạn( 6 nét đứt). Chấn ngưỡng bồn(tức hình cái chậu để ngửa). Cấn phúc uyển (hình cái chén úp). Ly trung hư (hình rỗng giữa). Khảm trung mãn(liền ở giữa). Đoài thượng khuyết (nét trên thiếu, đứt đôi). Tốn hạ đoạn (nét dưới đứt đôi )
Theo hiện tượng thì Kiền là Trời, Khôn là Đất, Chấn là Sấm, Cấn là Núi, Ly là Lửa, Khảm là Nước, Đoài là Đầm ao, Tốn là Gió.
Theo Ngũ Hành phân biệt thì Kiền Đoài là Kim, , Khôn Cấn là Thổ, Ly là Hỏa, Khảm là Thủy, Chấn Tốn là Mộc.
Theo 8 phương thì Kiến là Nam, Khôn là Bắc, Ly là Đông, Khảm là Tây, Chấn là Đông Bắc, Cấn là Tây Bắc, Đoài là Đông Nam, Tốn là Tây Nam.
Kinh Dịch nói: Trời Đất định vị, núi sông thông khí, sấm gió cùng nhẹ (tức tương bạc), thủy hỏa bất tương xạ ( nước lửa chẳng diệt nhau ?!).
Phân biệt thuận nghịch thì Tả toàn là từ Chấn đến Kiền , đều được những quẻ đã sinh là thuận; Hữu toàn là từ Khôn đến Tốn, gặp những quẻ chưa sinh là nghịch. Cương vị của quẻ Tiên Thiên là lấy nghĩa tương đối với nhau, xuất xứ từ chỗ còn hết của Âm Dương tự nhiên mà có sự kỳ diệu, vậy lấy Dương sinh ở Tý mà Cực (hêt) ở Ngọ, cho nên Chính Nam là Kiền, mà Kiền cũng chính là chỗ Dương Cực (hết)
Dược Cực thì nhất Âm sinh, lấy Tây Nam làm Tốn; Tốn chính là chỗ nhất Âm bắt đầu sinh, Âm sinh thì khí hẳn là thịnh mà bao bọc Dương. Vậy nên chính Tây là Khảm, mà Khảm cũng là chỗ nhất Dương tàng ẩn ở trong mà bao bọc ở trong chỗ thịnh Âm. Âm thịnh thì Dương suy dần đi, tức là thời kỳ đang bị chiếm lần để lập lên Cấn ở Tây Bắc. Cấn chẳng phải là nhị Âm thịnh mà là nhất Dương đã bị tiêu dần. Âm sinh ở Ngọ mà Cực ở Tý, cho nên lấy chính Bắc làm Khôn, Khôn chính là Âm Cực, mà Âm Cực thì nhất dương sinh.
Cho nên lấy Đông Bắc làm Chấn, Chấn chính là chỗ nhất Dương bắt đầu sinh. Dương sinh thì khí hẳn thịnh mà bao bọc Âm, cho nên lấy Chín Đông làm Ly, Ly chính là chỗ nhất Âm trung tàng mà được bọc ở trong chỗ thịnh Dương. Dương sinh thì Âm sắp tiêu dần đi, cho nên lấy Đông Nam làm Đoài, Đoài không phải là chỗ nhị Dương Thịnh mà là chỗ thịnh Âm sắp tiêu dần hay sao ? Vậy Kiền, Khôn ở chính vị Nam, Bắc là suy xét ở lẽ Âm, Dương tiêu trưởng (mòn hết , lớn lên) tự nhiên mà có như vậy. Khảm, Ly chính vị ở Đông Tây là lấy lý do xem sự tròn khuyết của mặt trời, mặt trăng ở những ngày Hối, Sóc, Huyền, Vọng (30, mùng 1, 14 và ngày Rằm) làm bằng cớ. Từ Hạ Huyền lúc méo mờ, dần dần lớn lên, đến khi tròn sáng, là Âm tiêu, Dương trưởng, là từ dưới lớn dần lên. Vì vậy quẻ Tả Toàn nhất Dương Chấn, nhị Dương Đoài, tam Dương Kiền, lấy cái hình tượng như thế đấy! Bởi từ Thượng Huyền mờ dần đến khi tối vẹn là Dương tiêu, Âm tức (nghỉ). Vì vậy quẻ Hữu Toàn nhất Âm Tốn, nhị Âm Cấn, tam Âm Khôn, là lấy có tượng như thế đấy! Sở dĩ như vậy mà Dương sáng, Âm tối. Cho nên mặt trăng chịu ảnh hưởng của ánh sáng mặt trời. Ngày Hối (30) thì ánh sáng của mặt trời khuất sau lưng của Trái đất, nên mặt trăng tối. Hôm Rằm (ngày Vọng) thì mặt trời đối chiếu vào mặt trăng nên mặt trăng sáng vẹn toàn. Biết cái sự sáng, tối, tròn, khuyết của mặt trăng thì biết là mặt trời ở giửa. Khàm, Ly là ngôi chính vị liệt ở Đông Tây. Âm Dương tiêu trưởng là lẽ tự nhiên. Người đời chỉ biết quẻ đối đãi của Tiên Thiên mà không hiểu cái lẽ hay của Âm Dương tiêu trưởng. Sở dĩ cái Thể của Lý Khí bao quát vô cùng là vậy đó.
Quẻ Hậu Thiên của vua Văn Vương thì lại khác thế, quẻ lấy sự lưu hành mà thành, bởi cái độ khí vận chuyển của 1 năm, biến cái thể của Tiên Thiên mà hiển ở cái Dụng vậy
Thứ tự của quẻ không theo Thái Cực, Lưỡng Nghi sinh ra, lại lấy quẻ Kiền thuần Dương làm cha mà sinh ra Chấn là trưởng nam, Khảm là trung nam, Cấn làm thiếu nam; lấy quẻ Khôn thuần Âm làm mẹ mà sinh ra Tốn là trưởng nữ, Ly là trung nữ và Đoài là thiếu nữ. Dùng khí để phân biệt Âm Dương, thì Kiền lẻ là Dương, mà Chấn, Khảm, Cấn có 2 chẵn 1 lẻ cũng là Dương. Đây là 3 quẻ bẩm khí ở Kiền là cha. Dương theo loại Dương, 1 lẽ làm chủ mà 2 chẵn nghe theo. Vậy nên Kinh Dịch nói : Quẻ Dương nhiều Âm; một Vua mà 2 dân. Đạo làm người quân tử lấy Khôn có 3 chẵn là Âm; Tốn, Ly, Đoài có 2 lẽ 1 chẵn cũng là Âm. Bởi 3 quẻ đều thụ bẩm khí ở Khôn là mẹ mà ra. Âm theo loại Âm, 1 chẳn làm chủ mà 2 lẽ nghe theo. Cho nên Kinh Dịch bảo rằng : Âm quái đa Dương, 2 Vua 1 dân. . Vì đạo kẻ tiểu nhân, nó phân biệt 8 phương làm Hậu Thiên, bắt đầu từ ở Chấn Khảm Tốn mà chấm dứt ở Cấn; phát sinh ở đầu, thu thành ở cuối, là lấy tượng 1 năm lưu hành. Cho nên Kinh Dịch nói : Đế xuất hồ Chấn, tề hồ Tốn, tương kiến hồ Ly, chí dịch hồ Khôn, thuyết hồ Đoài, chiến hồ Kiền, lao hồ Khảm, thành ngôn hồ Cấn, tường nhi luân chi. Chữ vắn tắt quá, nghĩa cũng thâm bóng bẩy, khó dẫn giải. Vậy theo ý nghĩa nông cạn tạm giải: Vua ra tự cung Chấn, tế ở cung Tốn, cùng thấy nhau ở cung Ly, làm việc ở Khôn, nói năng ở Đoài, chiến đấu ở Kiền, gian lao ở Khảm, thành sự ở Cấn, hiểu rõ mà bàn ở chỗ đó đấy.
Quái vị của Hậu Thiên lấy ý nghĩa ở chỗ lưu hành đó. Quẻ có Âm, có Dương, có quẻ thuần, quẻ bát và xứ sở của cung vị phù hợp với nhau một mảy cũng không trái lẽ ấy, là xem xét ở chỗ then chốt của nguyên hóa vận dụng. Đầu tiên là lấy 2 cực Thiên Địa làm then chốt trọng yếu. Chứ không phải là được cái Âm Dương chí thuần, vì cái ấy không đủ. Cho nên ngôi Bắc cực trên trời ở Hợi, mà Kiền thì lấy thiên tượng thuần Dương nên ở Tây Bắc. Ngôi Nam cực dưới đất ở Thân, mà Khôn lấy địa tượng thuần Âm nên ở Tây Nam. Đó điều là nơi đượng cực thiết yếu khứ xứ. Đừng nghĩ rằng những địa điểm đó là vô ý nghĩa, thất là chí lý! Lấy Kiền Khôn là tổ tông của Âm Dương, là phụ mẫu của các quẻ. Vậy nên Vua Văn Vương lấy 2 quẻ Kiền, Khôn đặt ở 2 vị trí của 2 cực. Ngoài chỗ này, Khảm là trung nam, Ly là trung nữ, có 2 quẻ không phải là có quyền Trưởng nam thay cha, Trưởng nữ thay mẹ. Nhưng cớ sao lại lấy Khảm, ly thay Kiền, Khôn của Tiên Thiên để ở vị Chính Nam, Bắc? Là vì lấy Nam Bắc 2 vị trí làm tiêu chuẩn để phân Âm Dương lập ra 8 phương. . Nếu không phải là những phần tử bẩm thụ được Chính Khí cú Âm Dương thì không thể ở đó được. Vì vậy Ly gốc là Kiền thể của Tiên Thiên, được 1 Âm của Khôn, nên nét giửa đứt (rổng không). Khảm vốn là Khôn thể của Tiên Thiên, được 1 Dương của Kiền nên nét giửa liền (trung thực). Cả 2 quẻ đều được Chính Khí của Âm Dương, khác hẳn với những quẻ trên dưới, bẩm thụ cả Âm Dương tạp khí. Văn Vương dụng Khảm. Ly làm chính vị ở Bắc, Nam là có đủ thâm ý nghĩa chứ không phải ngẫu nhiên vậy, 2 quẻ đều được khí của Kiền, Khôn chunh đúc ở trong. Hào vị tại Tiên Thiên, thì Chính Vị tại Đông Tây. Hậu Thiên ở Nam, Bắc hợp cả Khảm, Ly, Tiên, Hậu đều phân phối ra Đông Nam, Tây Bắc ở bên trong, chẳng cần biết bản thể ở Kiền Nam, Khôn Bắc ở Tiên Thiên là vì cớ vậy. Chấn vốn là Trưởng nam được khí của Khảm Ly trước, tại sao không thay Kiền ở Nam, mà lại ở Đông là thế nào? Thực ra lấy Chấn là 1 Dương mới bắt đầu sanh quẻ đã đứng đầu cả lục tử, thì cái vị nó ở chỗ đó. Tất đứng đầu sở cả ngũ phương và tứ thời, là con trai trưởng thay cha, để giữ về mùa xuân. Đã lấy con trai trưởng thay cha mà đứng đầu, thì cũng lấy con gái trưởng thay mẹ để sinh sản. Vì vậy Tốn nối sau Chấn ở Đông Nam, tức là trưởng nữ giúp trưởng nam, Âm Mộc giúp Dương Mộc, hỗ tương hiệp trợ, để sự tư thủy, tư sinh đều được tươi tốt. Đoài là thiếu nữ, vốn chất Kim yếu ớt không thể tự sinh vượng được, nên lấy Dậu ở Chính Tây, để giúp cho cha là Kiền ở bên tả, tức Kim nhờ Kim giúp; bên hữu nương tựa vào mẹ là Khôn, tức Kim nhờ Thổ sinh, thì Đoài là như vậy! Cấn là thiếu nam, là Thổ mong manh. Nhưng Cấn với Đoài, Âm tính nhu nhược khác nhau, còn hay giúp người nên việc được phần nào, nên lấy Cấn ở Đông Bắc. Vì khi ấy là thời kỳ cuối trinh, khởi nguyên, khí tiết của Thủy sắp hết, Mộc sắp nối tiếp theo. Bởi thế nên Thủy có cơ hội thư thái nghĩ ngơi, Mộc được có thế lực tài bồi sinh trưởng, mà phải ở Đông Bắc; là lấy thiếu nam giúp trưởng nam, để hoàn thành công việc của 1 năm. Kinh Dịch của Vua Văn Vương thật là kỳ diệu! Căn cứ ở Tiên Thiên mà mở ra Hậu Thiên để dùng, chứ không dng2 Tiên Thiên, dùng Hậu Thiên mà thực hợp với cái Thể của Tiên Thiên, tức là Địa Pháp, gồm cả Hà Đồ phối hợp với Lạc Thư. Nhân đó mà lấy mỗi quẻ quản tam sơn (3 phương), hợp thành 24 sơn. Vậy dùng Hậu Thiên, không dùng Tiên Thiên, nhưng Tiên Thiên vẫn có ở trong.
Đây là Tiên Thiên Bát Quái tự nhiên đối đãi như phu phụ, ý là: Tiên Thiên như linh hồn, Hậu Thiên như thể xác của người; có hồn thì có người, không hồn thì không người, phối hợp với nhau biến hóa vô cùng! Mà là gốc khởi hóa của Âm Dương, muôn đời không thay đổi. Tại sao biết đó là cái nguyên tắc căn bản không thay đổi? Ta lấy cái Tiên Thiên đối đãi với Bát Quái và bàn về 9 nét ứng với 9 cung; như quẻ Thiên Địa định vị có 9 nét, Thủy Hỏa bất tương xạ 9 nét, quẻ Lôi Phong tương bạc 9 nét, quẻ Sơn Trạch thông khí 9 nét, 4 quẻ mỗi quẻ 9 nét, để ứng 36 cung.
Cho nên có 4 câu thơ của Thiệu Khang Tiết :
"Kiền ngộ Tốn thời vi nguyệt quật
Khôn phùng Lôi địa hiện thiên căn
Thiên căn, nguyệt quật nhàn lai vãng
Tam thập lục cung đô thị xuân"
Nghĩa là: Kiền gặp cung Tốn thì trăng bị khuất, Khôn gặp cung Chấn thì thấy rõ chân trời, Cái thiên căn với nguyệt quật qua lai thông rồi, thì cả 36 cung đều sáng sủa đẹp như mùa xuân.
Vì vậy mà La Kinh chứa đựng tất cả, hóa ra 36 tầng; tầng nào cũng ẩn diệu, chữ nào cũng nhập huyền, tức là dấu cái kỳ diệu vào chỗ đen tối. Các thầy địa lý phần nhiều là không nhận xét cái căn nguyên đó, không nghiên cứu cái Thể Dụng đó, gồm đủ cả cái hay. Tôi nhân đó điểm từ số 1 và giải thích minh bạch , tầng thứ, để cho đời đời cùng học, keỏmất cái công lao khổ tâm của Tiên Thánh đã phát minh.
Kinh Dịch nói :
Kiền làm quân chủ, Khôn để chứa đựng
Lôi để hoạt động, Phong để phân tán
Vũ để tưới nhuần, Nhật để ấm áp
Cấn để ngưng lại, Đoài để vui mừng.
(Lôi tức là chấn ;phong tức là tốn;vũ tức là khảm;Nhật tức là ly)